Cẩn Thận Với Incoterm 2010- (Khai Thác_Thương Vụ)
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Cẩn Thận Với Incoterm 2010- (Khai Thác_Thương Vụ)
Cẩn thận hơn với Incoterm 2010
Các doanh nghiệp xuất khẩu từ nay phải cẩn thận hơn với điều kiện giao nhận hàng mới theo thông lệ quốc tế mang tên Intcoterm 2010 có hiệu lực vào ngày 01/01/2011.
Nếu như ở Incoterm 2000 đang thực thi trong giao nhận hàng thì phương thức giao hàng FOB người bán chỉ chịu trách nhiệm tới “lan can tàu" (Ship Rail) thì ở Incoterm 2010 được ban hành gần đây và sẽ có hiệu lực vào ngày 1-1-2011 sắp tới, thuật ngữ này được thay thế bằng “ở trên tàu" (On Board The Vessel). Theo đó, người bán (seller) sẽ chuyển rủi ro của lô hàng mình bán thực sự cho người mua (buyer) khi hàng thực sự “ở trên tàu” chứ không phải "lan can tàu” như trước nữa.
Ông Võ Nhật Thăng, Trọng tài viên Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, cho biết thuật ngữ mới này ra đời nhằm nhấn mạnh việc phân chia rủi ro từ người bán sang người mua một cách rõ ràng hơn so với Incoterm 2000 tại cuộc hội thảo về “Hạn chế rủi ro trong thương mại quốc tế 2011” tổ chức sáng 30/11, TP. Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, ông Thăng còn nhấn mạnh rằng trong Incoterm 2010, các chi phí khi nhận hàng tại cảng đến như lệnh giao hàng (Deliver Order), phí vận đơn đường biển (Bill Of Lading) và nhất là phí nâng hạ container (Terminal Handing Charges) được quy định rõ hơn so với Incoterm 2000. Theo đó, Incoterm 2010 quy định các chi phí trên đều do người bán chịu nhưng các doanh nghiệp Việt Nam cần ghi rõ trong hợp đồng ai sẽ chịu các chi phí này một cách rõ ràng, nếu không phần thiệt thòi sẽ nghiêng về các doanh nghiệp Việt Nam.
Các điều kiện trong Incoterm 2000 như DAF, DES, DEQ và DDU được thay thế bằng các thuật ngữ như DAT (Delivered At Terminal), hàng đến đích đã dỡ xuống; DAP (Delivered At Place), hàng đến đích sẵn sàng để dỡ xuống. Trong đó các thuật ngữ như “Terminal” và “Place” được hiểu theo nghĩa rộng hơn là cầu cảng, cảng.
Ông Thăng cũng lưu ý các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu nên chuyển dần từ điều kiện FOB sang các điều kiện khác như CIF, CFR, vì các điều kiện này sẽ có lợi cho các doanh nghiệp trong việc kiểm soát lô hàng nếu đối tác chưa thanh toán đủ hoặc không thanh toán tiền thì các doanh nghiệp chỉ tốn một ít chi phí chở hàng về còn hơn mất cả lô hàng.
“Điều kiện FOB theo Incoterm 2010 chứa đựng rất nhiều rủi ro như khi giao hàng lên tàu, mặc dù người bán còn giữ các chứng từ nhận hàng (Bill Of Lading) nhưng đã mất quyền kiểm soát lô hàng của mình, các doanh nghiệp có thể mất một phần hay cả lô hàng vì không thể ra lệnh cho hãng tàu ngừng giao hàng cho người mua vì người bán không phải người thuê tàu”, ông Thăng nói.
Trong Incoterm 2010, các quy tắc giao hàng cũng được chia làm hai nhóm so với bốn nhóm trong Incoterm 2000. Nhóm một được áp dụng cho bất kỳ phương thức vận tải nào, gồm các điều kiện như EXW - giao tại xưởng; FCA - giao cho người chuyên chở; CPT - cước phí trả tới; CIP - cước phí và phí bảo hiểm trả tới; DAT - hàng đến đích đã dỡ xuống; DDP - giao hàng đã nộp thuế.
Trong khi đó, nhóm còn lại chủ yếu được áp dụng khi có vận tải biển hay nội thủy gồm các điều kiện như FAS - giao dọc mạn tàu; FOB - giao lên tàu; CFR - tiền hàng và cước phí; CIF - tiền hàng, bảo hiểm và cước phí.
Các doanh nghiệp xuất khẩu từ nay phải cẩn thận hơn với điều kiện giao nhận hàng mới theo thông lệ quốc tế mang tên Intcoterm 2010 có hiệu lực vào ngày 01/01/2011.
Nếu như ở Incoterm 2000 đang thực thi trong giao nhận hàng thì phương thức giao hàng FOB người bán chỉ chịu trách nhiệm tới “lan can tàu" (Ship Rail) thì ở Incoterm 2010 được ban hành gần đây và sẽ có hiệu lực vào ngày 1-1-2011 sắp tới, thuật ngữ này được thay thế bằng “ở trên tàu" (On Board The Vessel). Theo đó, người bán (seller) sẽ chuyển rủi ro của lô hàng mình bán thực sự cho người mua (buyer) khi hàng thực sự “ở trên tàu” chứ không phải "lan can tàu” như trước nữa.
Ông Võ Nhật Thăng, Trọng tài viên Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, cho biết thuật ngữ mới này ra đời nhằm nhấn mạnh việc phân chia rủi ro từ người bán sang người mua một cách rõ ràng hơn so với Incoterm 2000 tại cuộc hội thảo về “Hạn chế rủi ro trong thương mại quốc tế 2011” tổ chức sáng 30/11, TP. Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, ông Thăng còn nhấn mạnh rằng trong Incoterm 2010, các chi phí khi nhận hàng tại cảng đến như lệnh giao hàng (Deliver Order), phí vận đơn đường biển (Bill Of Lading) và nhất là phí nâng hạ container (Terminal Handing Charges) được quy định rõ hơn so với Incoterm 2000. Theo đó, Incoterm 2010 quy định các chi phí trên đều do người bán chịu nhưng các doanh nghiệp Việt Nam cần ghi rõ trong hợp đồng ai sẽ chịu các chi phí này một cách rõ ràng, nếu không phần thiệt thòi sẽ nghiêng về các doanh nghiệp Việt Nam.
Các điều kiện trong Incoterm 2000 như DAF, DES, DEQ và DDU được thay thế bằng các thuật ngữ như DAT (Delivered At Terminal), hàng đến đích đã dỡ xuống; DAP (Delivered At Place), hàng đến đích sẵn sàng để dỡ xuống. Trong đó các thuật ngữ như “Terminal” và “Place” được hiểu theo nghĩa rộng hơn là cầu cảng, cảng.
Ông Thăng cũng lưu ý các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu nên chuyển dần từ điều kiện FOB sang các điều kiện khác như CIF, CFR, vì các điều kiện này sẽ có lợi cho các doanh nghiệp trong việc kiểm soát lô hàng nếu đối tác chưa thanh toán đủ hoặc không thanh toán tiền thì các doanh nghiệp chỉ tốn một ít chi phí chở hàng về còn hơn mất cả lô hàng.
“Điều kiện FOB theo Incoterm 2010 chứa đựng rất nhiều rủi ro như khi giao hàng lên tàu, mặc dù người bán còn giữ các chứng từ nhận hàng (Bill Of Lading) nhưng đã mất quyền kiểm soát lô hàng của mình, các doanh nghiệp có thể mất một phần hay cả lô hàng vì không thể ra lệnh cho hãng tàu ngừng giao hàng cho người mua vì người bán không phải người thuê tàu”, ông Thăng nói.
Trong Incoterm 2010, các quy tắc giao hàng cũng được chia làm hai nhóm so với bốn nhóm trong Incoterm 2000. Nhóm một được áp dụng cho bất kỳ phương thức vận tải nào, gồm các điều kiện như EXW - giao tại xưởng; FCA - giao cho người chuyên chở; CPT - cước phí trả tới; CIP - cước phí và phí bảo hiểm trả tới; DAT - hàng đến đích đã dỡ xuống; DDP - giao hàng đã nộp thuế.
Trong khi đó, nhóm còn lại chủ yếu được áp dụng khi có vận tải biển hay nội thủy gồm các điều kiện như FAS - giao dọc mạn tàu; FOB - giao lên tàu; CFR - tiền hàng và cước phí; CIF - tiền hàng, bảo hiểm và cước phí.
(Theo Thời báo Kinh tế SG Online)
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết
|
|
Wed May 03, 2017 3:42 pm by tamthanhms
» Công Nghệ Gamma Nano phục vụ cho nghành hàng hải
Thu Jul 23, 2015 9:22 am by phonggdnano
» Khóa Học Nghiệp Vụ Sư Phạm (NHANH CHỨNG CHỈ)
Sat Mar 28, 2015 8:47 am by trihunglaw
» Coffee Chat: “Du học Singapore và nghệ thuật tìm việc tại nước ngoài sau khi tốt nghiệp”
Tue Nov 25, 2014 3:17 pm by vannhi71
» Cần Học MICROSOFT EXCEL (Cơ Bản, Nâng Cao)
Fri Sep 19, 2014 9:58 am by tamthanhms
» Lớp Học Cấp Tốc CHỨNG CHỈ KẾ TOÁN TRƯỞNG (Học Viện Tài Chính)
Tue May 20, 2014 3:46 pm by hoccc
» LÀM GIẤY TỜ THUYỀN VIÊN
Tue Apr 09, 2013 8:54 am by thieudp
» Giấy Tờ, Tài Liệu Cần Có Cho Tàu Biển Việt Nam Hoạt Động Tuyến Quốc Tế
Fri Feb 17, 2012 7:35 pm by Robin
» Thuận Lợi Và Khó Khăn Của Việt Nam khi gia nhập công ước LĐHH
Fri Feb 17, 2012 12:09 am by Robin
» Công Ước Lao Động Hàng Hải 2006 và...Việt Nam
Fri Feb 17, 2012 12:06 am by Robin